Điều trị viêm hang vị sung huyết

Nguyễn Vĩnh Tiến(Cao Bằng)

Viêm hang vị sung huyết là tình trạng niêm mạc vùng hang vị dạ dày viêm, các mạch máu vùng viêm giãn nở do ứ máu nhiều.

Nguyên nhân gây bệnh là do chế độ ăn uống không hợp lý (ăn uống không đúng giờ, ăn nhiều thức ăn chua cay, béo hoặc ăn thiếu dinh dưỡng...), uống nhiều bia rượu, do dùng thuốc giảm đau, kháng viêm, corticoid, do yếu tố thần kinh căng thẳng, do bệnh lý nội tiết và đặc biệt viêm dạ dày do vi khuẩn Helicobacter Pylori (HP).

Nếu đã biết mình mắc bệnh, bác cần xét nghiệm xem có nhiễm HP không? Nếu có, cần phải điều trị bằng kháng sinh. Ngoài ra, cần sử dụng thêm các thuốc băng niêm mạc dạ dày, trung hòa dịch vị, nuôi dưỡng niêm mạc dạ dày, an thần.

Việc điều trị bệnh viêm dạ dày thường mất nhiều thời gian nên có tác động rất lớn tới tâm lý người bệnh. Nếu người bệnh càng lo lắng thì bệnh càng lâu khỏi, thậm chí có những lúc còn cảm thấy nặng hơn. Do vậy, ngoài việc đi khám bác sĩ chuyên khoa và tuân thủ đúng phác đồ điều trị, thời gian điều trị, chế độ ăn uống, bác cần có một tinh thần thoải mái, chế độ dinh dưỡng phù hợp, không ăn đồ cay, nóng, cai rượu, thuốc lá...

BS. Nguyễn Thị Phương Anh

Medlatec miễn phí hơn 6 triệu đồng chi phí điều trị tiểu đường cho mỗi người bệnh đái tháo đường type 2

Bệnh ĐTĐ type 2 - Kiểm soát chặt chẽ để ngăn biến chứng

Đau tim - biến chứng của bệnh ĐTĐ type 2.

Lối sống tĩnh tại ít hoạt động thể lực, chế độ ăn ít rau xanh, ít khoáng chất, … là một trong những nguyên nhân khiến bệnh ĐTĐ type 2 đang có nguy cơ gia tăng nhanh chóng trong xã hội hiện đại. Đây là bệnh lý mạn tính có thể gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm như bệnh mạch vành, đau tim, đột quỵ, xơ vỡ động mạch hay bệnh huyết áp cao.

Tuy nhiên, nếu bệnh phát hiện sớm, dùng thuốc kịp thời và kiểm soát đường huyết tốt sẽ ngăn chặn được những biến chứng nặng nề của bệnh. Do vậy, kiểm tra sức khỏe định kỳ là biện pháp tốt nhất để kiểm soát và hạn chế các biến chứng của bệnh.

Theo các chuyên gia y tế, bệnh ĐTĐ type 2 thường có các triệu chứng thầm lặng, vì vậy nếu xuất hiện các biểu hiện bất thường như tăng sự khát nước và đi tiểu thường xuyên, nhanh đói, giảm trọng lượng cơ thể, mệt mỏi, mờ mắt, chậm lành vết loét,… thì nên đi khám giúp tầm soát cũng như quản lý bệnh được tốt nhất.

Cơ hội điều trị ĐTĐ type 2 với 0 đồng

Trăn trở cùng người bệnh và ngành y tế về việc tìm ra hướng điều trị mới của bệnh ĐTĐ, tập thể y bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Medlatec đã tâm huyết nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu nhãn mở, ngẫu nhiên, nhóm đối chứng song song, đánh giá an toàn và hiệu quả của thuốc DIDALA đơn trị trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 so sánh với Metformin”.

Đây là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ được phê duyệt bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh của Bệnh viện Đa khoa Medlatec và Ban Đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh của Bộ Y tế.

Cao khô lá dâu – thành phần chính của thuốc DIDALA. Ảnh: Minh họa

Thay vì phối hợp với các thuốc hạ đường huyết khác trong điều trị đái tháo đường type 2 như trước đây, thuốc DIDALA có nguồn gốc thảo dược, được sản xuất từ cao khô lá dâu và được điều trị đơn liệu. Thuốc đã được Cục quản lý Dược Việt Nam cho phép lưu hành, được sử dụng với chỉ định điều trị đái tháo đường type 2 mới được chẩn đoán.

ThS. BS Hoàng Thị Thúy - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Medlatec cho biết: Tham gia vào nghiên cứu đề tài trên, khách hàng sẽ được hưởng rất nhiều quyền lợi. Theo đó, để người bệnh có đủ điều kiện tham gia nghiên cứu, Bệnh viện Đa khoa Medlatec có tổ chức KHÁM SÀNG LỌC MIỄN PHÍ đối với người bệnh có kết quả đường huyết từ 8 - 13 mmol/l, nhằm chẩn đoán xác định ĐTĐ qua khám lâm sàng, xét nghiệm lại đường huyết lúc đói, HbA1c và insulin (người bệnh dưới 45 tuổi).

Như vậy, với những trường hợp đủ điều kiện tham gia nghiên cứu đề tài khoa học này, người bệnh sẽ được Bệnh viện khám và điều trị trong vòng 6 tháng với tổng chi phí cho cả quá trình lên tới 6 triệu đồng, trong đó chưa kể chi phí thuốc điều trị đái tháo đường theo phác đồ điều trị miễn phí.

Về quyền lợi của người bệnh: Tất cả trường hợp tham gia nghiên cứu trong quá trình khám, điều trị sẽ được bác sĩ chuyên khoa Nội tiết - Đái tháo đường khám lâm sàng, xét nghiệm (chức năng gan, chức năng thận, mỡ máu, nước tiểu), siêu âm (siêu âm tim, ổ bụng), điện tim, chụp X-quang tim phổi và soi đáy mắt nhằm phát hiện biến chứng đái tháo đường. Đồng thời, người bệnh được theo dõi và tái khám định kỳ sau mỗi 4 tuần.

Ngoài ra, người bệnh sẽ được hỗ trợ chi phí đi lại cho mỗi lần tái khám tại viện, trong đó để tiết kiệm thời gian cho người bệnh, bệnh viện có tổ chức đến khám và lấy mẫu tại nhà. Với những trường hợp người bệnh không đủ điều kiện tiếp tục tham gia vào nghiên cứu sẽ KHÔNG phải trả bất cứ một khoản chi phí nào khác.

TS. Nguyễn Văn Tiến - chuyên gia Nội tiết khám và tư vấn tại Medlatec.

Trước thế mạnh hội tụ đội ngũ chuyên gia đầu ngành cùng việc trang bị đồng bộ hệ thống, thiết bị của các chuyên khoa, Bệnh viện Đa khoa Medlatec đã trở thành địa chỉ uy tín khám và điều trị các chuyên khoa. Trong đó, chuyên khoa Nội tiết, với đội ngũ chuyên gia, bác sĩ giàu kinh nghiệm như PGS. TS. Phạm Thiện Ngọc - Nguyên trưởng Khoa Hoá sinh, Bệnh viện Bạch Mai, Phó Chủ tịch Hội Hoá sinh Y học Việt Nam; Chuyên gia Nội tiết TS. Nguyễn Văn Tiến- Nguyên Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương; Bác sĩ BS Nguyễn Xuân Thủy - Chuyên khoa Nội tiết,…cùng đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm trong chẩn đoán, theo dõi và điều trị bệnh lý ĐTĐ.

Với quyết tâm đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học vào khám chữa bệnh, cùng sự tích cực đồng hành của người bệnh tham gia vào nghiên cứu, Bệnh viện Đa khoa Medlatec mong muốn đề tài triển khai thành công sẽ giúp người dân được thụ hưởng phác đồ điều trị mới - thuốc DIDALA đơn trị trên bệnh nhân ĐTĐ type 2của đề tài mang lại.

Minh Phong

Ung thư gan trị thế nào?

Mặc dù hiện đã có vắc-xin phòng viêm gan vi- rút nhưng do hiểu biết của người dân, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi còn nhiều hạn chế nên người dân thường không khám sức khỏe định kỳ, không tiêm phòng vắc-xin đầy đủ…

Ung thư gan nguyên phát là bệnh lý ác tính của gan xảy ra khi tế bào bình thường của gan trở nên bất thường về hình thái và chức năng. Các tế bào ung thư phát triển gây ảnh hưởng đến mô bình thường liền kề và có thể lây lan sang các vùng khác của gan cũng như các cơ quan bên ngoài gan. Ung thư gan nguyên phát gồm 3 loại chính: Ung thư biểu mô tế bào gan (phát triển từ tế bào gan), ung thư biểu mô đường mật (phát triển từ đường mật trong gan) và u nguyên bào gan (Hepatoblastoma). Trong đó ung thư biểu mô tế bào gan là hay gặp nhất. Tại Việt Nam, ung thư gan đứng hàng thứ 3 trong các loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới và thứ 8 ở nữ giới.

Nguyên nhân, triệu chứng và cách phát hiện sớm

Hầu hết những người mắc ung thư gan đều bị bệnh gan mạn tính (tổn thương gan lâu dài gọi là xơ gan), gây sẹo xơ ở gan và làm tăng nguy cơ ung thư gan. Điều kiện gây xơ gan là viêm gan b, viêm gan C, nghiện rượu, nhiễm độc tố aflatoxin do nấm mốc…Ngoài ra, nguyên nhân gây ung thư gan có thể liên quan đến các yếu tố môi trường, chế độ ăn uống, lối sống. Xơ gan do bất kỳ nguyên nhân nào là yếu tố nguy cơ gây ung thư gan.

Ung thư gan trị thế nào?

Ung thư gan giai đoạn sớm ít có triệu chứng nên thường phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn khi đã có biến chứng. Ở giai đoạn sớm của ung thư có thể gặp các triệu chứng của viêm gan mạn tính hoặc xơ gan tiến triển như: Chán ăn; đau, nặng tức vùng hạ sườn phải (HSP); trướng bụng; vàng da, củng mạc mắt… Trong giai đoạn muộn hơn, các triệu chứng trên rõ ràng, hoặc xuất hiện thêm các biến chứng của bệnh: Sụt cân; buồn nôn, nôn; mệt mỏi; chán ăn; trướng bụng; đau, nặng tức vùng HSP; ngứa; vàng da, củng mạc mắt; đi ngoài phân trắng/bạc màu. Vì vậy nếu có một trong các triệu chứng trên người bệnh cần đi kiểm tra và tầm soát bệnh ngay.

Chẩn đoán phát hiện bệnh

Cách tốt nhất để phát hiện ung thư gan là khám sức khỏe định kỳ có siêu âm gan ít nhất mỗi 6 tháng/lần, đặc biệt là những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao (xơ gan, viêm gan mạn do rượu, viêm gan virus B, C,…). Khi nghi ngờ có ung thư gan, bác sĩ sẽ yêu cầu thêm những xét nghiệm, thăm dò sau để chẩn đoán:

Xét nghiệm máu: Alpha – fetoprotein (AFP) có thể tăng lên ở 70% bệnh nhân ung thư gan nhưng cũng có thể bình thường. Khi AFP tăng cao là dấu hiệu nghi ngờ lớn với ung thư gan. Tuy nhiên, AFP có thể tăng trong xơ gan và viêm gan mạn. Ngoài AFP, xét nghiệm khác cũng có thể được dùng để phát hiện ung thư gan là DCP (Des – gamma – carboxyprothrombin) hay còn gọi là PIVKA – II cũng có độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán ung thư gan.

Chẩn đoán hình ảnh: Chụp cắt lớp vi tính đa dãy có tiêm thuốc cản quang hoặc cộng hưởng từ (MRI) có dùng thuốc đối quang từ có thể được chỉ định để đánh giá động học của u gan. Các phương pháp này cho phép đánh giá tương đối chính xác tính chất của u gan cũng như số lượng, vị trí, liên quan của u gan với các thành phần quan trọng khác trong gan (mạch máu, đường mật). Ngoài ra, còn giúp đánh giá tình trạng di căn tại gan, ngoài gan của ung thư gan. Tuy nhiên với các tổn thương kích thước nhỏ (dưới 1cm) thường khó đánh giá tính chất.

Sinh thiết gan: Không cần thiết trong mọi trường hợp, đặc biệt là khi các dấu ấn miễn dịch và chẩn đoán hình ảnh là rõ ràng cho việc chẩn đoán ung thư gan. Do đó sinh thiết gan chỉ nên chỉ định khi thật sự cần thiết bởi việc sinh thiết cũng có những rủi ro nhất định: Nhiễm trùng, chảy máu, gieo rắc tế bào ung thư theo đường đi của kim sinh thiết (1 – 3% trường hợp).

Các phương pháp điều trị hiện nay

Việc lựa chọn phương pháp điều trị ung thư gan tùy thuộc vào mức độ lan rộng của tổn thương và tình trạng xơ gan:

Phẫu thuật: Giúp loại bỏ phần gan chứa u, được lựa chọn với các trường hợp u gan không quá to, còn khả năng cắt bỏ. Đây là phương pháp điều trị triệt căn quan trọng nhất trong số các phương pháp điều trị ung thư gan hiện nay và thường được khuyến cáo là lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân nếu còn chỉ định. Mặc dù phẫu thuật có thể gặp các biến chứng: Chảy máu, nhiễm trùng, rò mật, suy gan… Tuy nhiên các tai biến này ít gặp và đa phần có thể xử lý tốt mà không gây hậu quả nghiêm trọng cho người bệnh.

Cách tốt nhất để phát hiện ung thư gan là khám sức khỏe định kỳ có siêu âm gan ít nhất mỗi 6 tháng, đặc biệt là những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao (xơ gan, viêm gan mạn do rượu, viêm gan virus B, C…)

Ghép gan: Thay thế gan bệnh bằng gan lành từ người cho sống hoặc người cho chết não. Ghép gan cũng có thể gặp các biến chứng như phẫu thuật. Ngoài ra, ghép gan còn có thể gặp một số biến chứng khác liên quan đến thải ghép, nhiễm trùng do dùng thuốc ức chế miễn dịch sau ghép, tăng huyết áp, cholesterol máu cao, đái tháo đường, suy thận…

Phá hủy u tại chỗ: Đây là phương pháp hiện đại giúp phá hủy mô ung thư mà không cần phẫu thuật. Cơ chế chung là dùng nhiệt hoặc các chất gây chết tế bào ung thư: Đốt u bằng sóng cao tần (RFA), vi sóng (MWA); tiêm cồn tuyệt đối qua da (PEI); áp lạnh (Cryotherapy). Phương pháp này thường chỉ định cho các khối u nhỏ (dưới 3cm), thường được làm dưới hướng dẫn của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt là siêu âm.

Nút hóa chất động mạch gan (TACE): Đây là biện pháp chặn nguồn cấp máu cho khối u. Bác sĩ sẽ luồn dụng cụ vào đến nhánh động mạch gan cấp máu cho khối u, sau đó bơm vật liệu nút mạch kèm hóa chất gây tắc mạch đó. Khối u sau đó sẽ bị thiếu máu và hoại tử dần. Đây không phải phương pháp điều trị triệt căn nhưng là phương pháp quan trọng, chỉ định trong những trường hợp u gan to, nhiều ổ không còn khả năng phẫu thuật. Hoặc có thể được chỉ định như là bước đệm trước khi tiến hành cắt gan.

Xạ trị: Hiện nay có một số loại hình xạ trị đang được nghiên cứu, áp dụng như: Xạ trị dùng hạt vi cầu phóng xạ Yttrium – 90, xạ trị proton… tuy nhiên hiệu quả cần thêm thời gian đánh giá.

Hóa trị: Là sử dụng hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư. Thuốc có thể dùng đường uống, hoặc tiêm truyền tĩnh mạch, hoặc bơm chọn lọc vào nhánh động mạch gan cấp máu cho khối u khi làm tắc mạch. Hiệu quả của hóa trị cũng như xạ trị hiện còn những hạn chế nhất định.

Điều trị nhắm trúng đích: Thường được chỉ định khi các phương pháp điều trị kể trên không còn chỉ định. Có nhiều loại thuốc điều trị đích hiện nay đã được sử dụng hoặc đang nghiên cứu phát triển, trong đó sorafenib (nexavar) đang được sử dụng rộng rãi.

Ung thư gan trị thế nào?Kỹ thuật nút động mạch gan bằng hóa chất.

Các biện pháp phòng ngừa

Để phòng chống ung thư gan, toàn dân cần thực hiện một số biện pháp sau:

Khám sức khỏe định kỳ thường xuyên mỗi 6 tháng/lần bằng siêu âm, xét nghiệm máu… để phát hiện sớm các tổn thương gan, đặc biệt ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao của ung thư gan: Viêm gan virus B, C, xơ gan…

Tiêm phòng đầy đủ vắc-xin phòng viêm gan B.

Hạn chế hoặc bỏ bia, rượu, thuốc lá, đặc biệt đối với những bệnh nhân có xơ gan, viêm gan virus.

Không dùng thuốc bừa bãi, đặc biệt thuốc chưa rõ nguồn gốc mà không tham khảo ý kiến bác sĩ. Hầu hết các thuốc đều chuyển hóa qua gan, việc lạm dụng thuốc có thể gây suy giảm chức năng gan, nhất là những bệnh nhân đã có bệnh gan mạn tính và đây là nguy cơ cao cho ung thư gan.

Tránh tiếp xúc với các hóa chất độc hại dễ làm tổn thương gan.

TS.BS. Phạm Thế Anh

Nhiều người `ngã ngửa` biết mình bị bệnh qua khám sức khỏe cộng đồng

Theo đó, đã có 301 người được khám sức khỏe ở các trường hợp bệnh: bệnh sản, phụ khoa (khám phát hiện bệnh ung thư vú, ung thư cổ tư cung), bệnh Tai mũi họng, Xét nghiệm tìm hồng cầu ẩn trong phân, Siêu âm sản phụ khoa, siêu âm ổ bụng, siêu âm tuyến giáp… Qua tiến hành thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết, các bác sĩ phát hiện: 100 trường hợp có nhân tuyến giáp, 81 người có nang tuyến giáp, 54 người bị gan nhiễm mỡ, 41 trường hợp bị u xơ tử cung, 20 người bị sỏi thận, 35 người bị tăng huyết áp, 12 người có u vú …

Các trường hợp người mắc bệnh được các bác sĩ tư vấn sức khỏe và giới thiệu tới bệnh viện để khám và điều trị chuyên sâu. Bên cạnh đó các bác sĩ còn tiến hành tư vấn sức khỏe, chế độ dinh dưỡng và hướng dẫn người dân cách tự phát hiện các dấu hiệu bệnh sớm.

Việc khám và tầm soát các bệnh tại cộng đồng nhằm làm giảm bớt gánh nặng điều trị cho người dân, giúp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm đem lại hiệu quả cao trong việc điều trị bệnh.

Đây là một trong những mục tiêu của bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí trong việc đưa dịch vụ y tế tới cộng đồng để người dân được thụ hưởng những dịch vụ y tế tốt nhất. Trong thời gian tới, bệnh viện sẽ tiếp tục tiến hành khám sức khỏe cho người dân tại các xã phường khác trên địa bàn thành phố Uông Bí.

Vũ Nhị

Thực phẩm chức năng có giúp chữa khỏi viêm gan B?

Trịnh Thu Vân (Hà Nội)

Chào bạn, bạn mới nhiễm viêm gan B không rõ là bao lâu, đã làm những xét nghiệm gì... 90% những bệnh nhân nhiễm viêm gan B cấp tính có thể tự khỏi. Điều trị viêm gan b cấp tính chủ yếu là điều trị hỗ trợ như nghỉ ngơi tuyệt đối, kiêng bia rượu, hạn chế uống thuốc chuyển hóa qua gan, có thể dùng thuốc bổ gan theo chỉ định của bác sĩ.

Đối với người nhiễm viêm gan B mạn tính khi có xét nghiệm HBsAg dương tính trên 6 tháng hoặc HbsAg dương tính và antiHBc IgG dương tính. Chỉ số ALT, AST tăng cao từng đợt hoặc liên tục trên 6 tháng. Với những trường hợp này, bệnh nhân có chỉ định điều trị khi ALT tăng cao hơn 2 lần giá trị bình thường hoặc có bằng chứng xơ hóa gan, xơ gan, nồng độ virut trong máu tăng trên 105 copies nếu HbeAg dương tính. Bệnh nhân cần điều trị thuốc kháng virut, thuốc điều trị triệu chứng và xét nghiệm theo dõi. Không được tự ý dừng thuốc khi chưa có chỉ định của thầy thuốc. Trong quá trình điều trị bệnh nhân cần theo dõi các tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra cho bác sĩ biết để được xử lý thích hợp, kịp thời.

Thực phẩm chức năng chỉ có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh chứ không chữa khỏi viêm gan B. Việc dùng thực phẩm chức năng cũng tùy vào từng giai đoạn bệnh. Vì vậy, trước khi sử dụng bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ. Bạn cũng không nên sử dụng thuốc Nam khi không rõ nguồn gốc vì như vậy có thể gây viêm gan nhiễm độc, làm nặng thêm tình trạng viêm gan virut của bạn.

Chúc bạn chóng khỏe!

ThS.BS. Phạm Kim Dung

Thiết bị mới điều trị khó thở cho bệnh nhân khí thũng nặng

Thiết bị mang tên Zephyr Endobronchial Valve (Zephyr Valve) mới đây đã được FDA (Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ) phê duyệt để điều trị khó thở cho bệnh nhân bị khí thũng nặng.

Hiện các lựa chọn điều trị được giới hạn cho những người bị khí thũng có triệu chứng nghiêm trọng chưa được cải thiện khi uống thuốc là phẫu thuật phổi (giảm thể tích phổi hoặc cấy ghép phổi), nhưng kỹ thuật này có thể sẽ không thích hợp cho tất cả bệnh nhân. Với thiết bị mới Zephyr Valve này là một phương pháp điều trị ít xâm lấn hơn giúp cho bệnh nhân và bác sĩ có thêm lựa chọn trong điều trị.

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ ước tính có 3,5 triệu người trưởng thành ở Mỹ đã được chẩn đoán mắc khí phế thũng. Khí phế thũng, bao gồm khí phế thũng nặng là một loại bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) do tổn thương các túi khí (phế nang) trong phổi. Tổn thương phổi do khí thũng là không thể đảo ngược. Các phế nang bị hư hại làm cho không khí bị mắc kẹt trong phổi và ngăn không khí mới xâm nhập vào, gây khó thở nghiêm trọng...

Sử dụng ống soi tiêu chuẩn, đưa van Zephyr vào trong phổi

Sau khi cấy ghép, van một chiều ngăn chặn luồng không khí vào vùng bị bệnh, trong khi cho phép không khí và chất lỏng bị mắc kẹt thoát ra ngoài

Giảm khối lượng của vùng bị bệnh có thể cho phép các vùng khỏe mạnh mở rộng và hoạt động hiệu quả hơn

Với thiết bị mới này bác sĩ chỉ cần sử dụng một ống soi phế quản linh hoạt, sau đó đặt van Zephyr vào các khu vực bị bệnh của đường hô hấp trong phổi. Van sẽ ngăn chặn không khí xâm nhập nơi bị tổn thương của phổi, cho phép không khí và chất lỏng bị kẹt thoát ra ngoài bằng cách: Khi hít vào các van đóng lại, ngăn không khí xâm nhập vào phần bị hư hại của phổi và khi thở ra các van mở ra, cho phép không khí bị mắc kẹt thoát ra ngoài, làm giảm áp lực cho phổi, giảm khối lượng của vùng bị bệnh có thể cho phép các vùng khỏe mạnh mở rộng và hoạt động hiệu quả hơn.

FDA đã xem xét dữ liệu từ một nghiên cứu đa trung tâm của 190 bệnh nhân bị khí thũng nặng. Trong nghiên cứu này, 128 bệnh nhân được điều trị bằng Zephyr Valves và quản lý y tế theo hướng dẫn lâm sàng hiện tại, bao gồm thuốc (thuốc giãn phế quản, corticosteroid, thuốc kháng sinh hoặc thuốc chống viêm) và phục hồi phổi, trong khi 62 bệnh nhân (nhóm chứng) chỉ được điều trị bằng thuốc và phục hồi phổi.Kết quả điều trị được đo bằng số lượng bệnh nhân trong mỗi nghiên cứu có ít nhất 15% cải thiện điểm chức năng phổi. Trong một năm, 47,7% bệnh nhân được điều trị bằng Zephyr Valves có ít nhất 15% cải thiện chức năng phổi, so với 16,8% bệnh nhân trong nhóm chứng. Bệnh nhân được điều trị bằng Zephyr Valves thở dễ dàng hơn, năng động hơn và tràn đầy năng lượng, ít hụt hơi và tận hưởng chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể so với những bệnh nhân chỉ được quản lý y tế.

Không dùng Zephyr Valve cho những bệnh nhân bị nhiễm trùng phổi hoạt động; những người bị dị ứng với nitinol, niken, titan hoặc silicon; những người hút thuốc nặng và những người không thể chịu đựng được thủ thuật phế quản. Những bệnh nhân có các thủ thuật phổi lớn, bệnh tim, bong bóng khí lớn bị mắc kẹt trong phổi hoặc những người không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác nên nói chuyện với nhà cung cấp của họ để xác định xem thiết bị Zephyr Valve có phù hợp với họ hay không.

Thu Giang

(FDA 6/2018)

Tại sao phụ nữ trung niên dễ bị chóng mặt?

Nguyên nhân vì đâu?

Theo một công trình nghiên cứu về sự “mất bình đẳng” giữa nam và nữ ở tất cả mọi mặt của Tiến sĩ sinh học Jiongjiong Wang và các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Pennsylvania, Philadelphia và Trường đại học Rockefeller, New York, Mỹ cho thấy rằng nữ giới dễ bị trầm cảm, stress hơn nam giới.

Ảnh minh họa

Nghiên cứu chọn ra 16 tình nguyện viên nam và 16 tình nguyện viên nữ, bắt đầu quan sát hình ảnh cộng hưởng từ để xem não bộ của 32 tình nguyện viên này hoạt động như thế nào trong tình trạng stress.

Cụ thể là 32 tình nguyện viên này phải thực hiện công việc tính toán trong điều kiện stress. Kết quả cho thấy được não phải trước trán của nam giới (phần não điều hòa cảm xúc) hoạt động nhiều hơn, trong khi đó phần não bên trán trái ( phần não ngăn cản cảm xúc) ít bị tác động hơn. Nhưng tất cả những phản ứng ở2 phần não trái và phải đều chịu tác động của hormone cortisol (hormone gây chóng mặt) do cơ thể tiết ra trong quá trình bị stress, gây ra hiện tượng chóng mặt. Tình trạng não bộ bị tác động không kéo dài, chỉ kết thúc sau cuộc thí nghiệm.

Còn đối với phụ nữ, phản ứng của não bộ cảm xúc lại lâu dài hơn, không giống như nam giới là kết thúc ngay sau khi thí nghiệm kết thúc. Đó là nguyên nhân tại sao phụ nữ dễ bị stress, trầm cảm, rối loạn lo âu, gây ra chóng mặt hơn nam giới.

Ảnh minh họa

Thêm vào đó, phụ nữ ở độ tuổi trung niên có quá nhiều nỗi lo về gia đình, con cái, công việc nên cực kì dễ mắc chứng chóng mặt do stress. Ngoài ra, phụ nữ ở độ tuổi này đang chuẩn bị bước vào thời kì tiền mãn kinh nên có rất nhiều biến đổi về tâm sinh lý do lượng hormone nữ giới giảm dần. Vì thế tình trạng chóng mặt do stress, áp lực là triệu chứng thường gặp.

Việc đầu tiên để giảm stress hết chóng mặt là bạn cần phải thay đổi thói quen sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi, luyện tập thể dục của mình. Lập lại kế hoạch làm việc cụ thể, cân bằng giữa công việc và thư giãn. Luôn tuân thủ những kế hoạch mình đặt ra một cách nghiêm túc.

Riêng với những phụ nữ bị chóng mặt với mật độ liên tục thì nên sử dụng thuốc giảm chóng mặt có hoạt chất Acetyl-DL-Leucin đã được các chuyên gia chứng nhận trong việc chấm dứt cơn chóng mặt hiệu quả cũng như nênkết hợp với chế độ ăn uống, luyện tập hợp lý .Độ tuổi trung niên là giai đoạn cơ thể đang dần lão hóa đi, nếu bạn không chăm sóc kĩ lưỡng sức khỏe, tinh thần của thì tình trạng lão hóa sẽ diễn ra nhanh chóng, khiến cơ thể yếu đi, dễ mắc bệnh kể cả bệnh về thần kinh như chóng mặt, stress.